http://paulvanchi.net
Chào mừng quý vị đến với website của Linh mục nhạc sĩ www.paulvanchi.net - Những dòng nhạc thánh ca!
» Tác phẩm » Tài liệu
Hành Hương Cursillo 2011, Bước theo chân Thầy phần 1
18/3/2012, 4:48 am
Chiều thứ 2 ngày 17 tháng 10 năm 2011, đoàn Hành Hương Bước Theo Thầy lên đường Hành Hương theo bước Chân của Chúa Giêsu Kitô và bước chân của các Thánh Tông Đồ, đặc biệt 2 Thánh Tông Đồ Cả là Phêrô và Phaolô.

PHẦN NHẤT - Đoàn hành hương chúng tôi trên chuyến bay Boeing 777 của hãng hàng không Emirate lên đường tới Bangkok, sau đó, chuyến bay Boeing 777 lại đưa chúng tôi tới Dubai và tiếp tục hành trình bay tới Amman nước Jordan. Xe bus đón Đoàn Hành Hương Bước Theo Thầy theo dấu chân của Moi Sen và Gioxuê qua khu vực dân Moab, nơi Moisen cầu nguyện khi giang tay thì thắng trận, khi mỏi tay buông xuống thì dân Do Thái thua trận...Đi qua dẫy núi Nebo nơi Moisen qua đời nhìn về Thánh Địa và Môi Sen qua đời tại đây và không được vào Hứa Địa Israel. Qua dẫy núi Moab và hướng về Jericho theo con đường Gioxuê dẫn dân Do Thái về Hứa Địa. Xe bus dẫn đoàn qua thung lũng sông Jordan nhìn về Biển Chết và vùng Jericho. Qua biên giới Jordan và Israel, binh lính Israel kiểm soát rất khắt khe....Đoàn khá mệt mỏi vì phải đi bộ từng người qua trạm, vả lại ai cũng sợ mất passport...Phái đoàn Hành Hương tiến vào hoang địa Judea và hướng về Jerusalem. Phái Đoàn vào Jerusalem đúng và dịp Lễ Lều Sukot, những lều tạm người Do Thái dựng lên để nhớ về những ngày gian khổ xa xưa trong hoang địa 40 năm trên đường về Hứa Địa Israel.

 
                    Hành trình Núi Moab Jordan về Hứa Địa Israel.
Hành Hưong Bước Theo Thầy  nhập cuộc theo Hành Trình của Chúa Giêsu Kitô cách đây hơn 2000 năm theo chủ đề: "Bước Theo Thầy.".

KHÁI NIỆM  VỀ NƯỚC DO THÁI 
a) Địa dư: Diện tích nước Do thái là 20.850 km2. Dài 416 km, rộng từ 15km đến 66km. 50% đất đai là những cánh đồng hoang vu. Ranh giới Do thái nằm sát với Libăng, Syria, Jordan và Ai Cập, phía tây giáp với Địa trung Hải.
b) Khí hậu: có 2 mùa rõ rệt, mùa hè khô ráo và mùa đông ôn hòa nhưng hay mưa.
c) Dân số: Dân số ngày nay tại Do Thái là 7,700,000 người, gồm 5,802,000 người Do Thái, và 1,573,000 người Ả Rập, và khoảng 160,000 người du mục Bedouins. Về Tôn Giáo, Do Thái có 5,802.000 theo Đạo Do Thái, 633.000 Hồi giáo Ả Rập, 105.000 Công Giáo, và cón lại là những  người theo các Tôn Giáo khác.
d) Ngôn ngữ: Tiếng Do Thái được đổi mới, toàn dân đều học và nói tiếng Do Thái. Báo chí bằng tiếng Do Thái mỗi ngày một gia tăng.
e) Tôn giáo: Do thái có những tôn giáo chính: Do Thái giáo, Hồi giáo, Kitô giáo theo nghi lễ Đông phương và La Tinh, Tin Lành...
Sáng  ngày 18 tháng 10, đúng ngày Lễ Sukot, Lễ Lều của người Do Thái với 8 ngày nghỉ. Đoàn hành hương hưóng về Belem. Nghỉ đêm tại Belem nơi Hotel Golden Park. Ngày 19.10, đoàn đã cùng nhau lên đường kính viếng Ein Kerem Thánh Đường Gioan Tẩy Giả, Thánh Đường Mẹ Thăm Viếng, Giếng Đức Mẹ.

Hành Hương đến thăm Ein Karem, nơi Thánh Gioan Tẩy Giả Sinh Hạ tại đây, đồng thời hành hương Thánh Đường Đức Mẹ thăm viếng Bà Thánh Elisabeth xảy ra xưa kia. Ngôi làng xinh xắn Ein Karem không xa Jerusalem bao nhiêu.  Ein Karem theo nguyên ngữ Do Thái là “Spring of the Vineyard-Suối của vườn nho”, Làng được bao bọc bằng những ngọn đồi với nhiều vườn cây olive và nho. Làng này được tin tưởng là nơi Thánh Gioan Tẩy Giả sinh hạ. Nơi đây, Mẹ Maria từ Nazareth đến thăm viếng người chị họ tên là Isave (Elizabeth), mẹ của Thánh Gioan Tẩy Giả, theo Phúc Âm Luca (Luke 1: 39-46). Phúc Âm không chỉ định rõ nơi Mẹ Maria gặp Thánh Isave hay chỉ rõ nơi Thánh Gioan Tẩy Giả sinh hạ. Phúc Âm chỉ trình thuật: “Mẹ Maria vội vã tiến về vùng núi của Judah.”
Nơi này phải là nơi gần Jerusalem để Zacharias là cha của Thánh Gioan Tẩy Giả phục vụ trong Đền Thờ. Theo truyền thống và qua các nhà khảo cổ cùng với những tài liệu quý giá, Ein Karem được nhận là nơi Mẹ Maria thăm viếng và là nơi hạ sinh Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngôi làng xinh xắn này với nhiều suối nước phù hợp với tường thuật của Thánh Sử Luca, là nơi quy tụ nhiều người từ thuở xa xưa.  Ngôi Nhà Thờ mang tên Thánh Gioan Tẩy Giả được xây dựng vào thế kỷ thứ 5 ngay trên ngôi nhà của ông Zacharias và là nơi sinh hạ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Nhà Thờ bị phá huỷ rồi được xây dựng lại thời Đạo Binh Thánh Giá. Ngôi Nhà Thờ hiện nay được quý Cha Phanxicô xây dựng vào năm 1885. Nhà Thờ Thăm Viếng với 2 tầng được xây dựng trên khu vực Thánh Isave mang thai Gioan Tẩy Giả và Mẹ Maria đến thăm viếng Bà. Từ những ngày đầu tiên, Nhà Thờ này được xây dựng vào thế kỷ thứ 5. Sau đó, nhiều lần được sửa chữa lại và đến năm 1938, quý cha Phanxicô mới xây dựng Nhà Thờ phía trên. Trên bức tường hướng về Nhà Thờ, bản kinh Magnificat (Linh Hồn tôi ngợi khen Chúa) của Mẹ Maria được viết bằng 41 ngôn ngữ khác nhau.  Đoàn chúng tôi xuống lầu dưới Nhà Thờ Thăm Viếng để cùng cầu nguyện trước Giếng Đức Mẹ. Giếng này còn khá nguyên thủy được rào vây rất cẩn thận. Nơi đây, Mẹ Maria đã từng múc nước giúp đỡ Bà Elisabeth trong lúc mang thai Gioan Tẩy Giả. Trên hành trình xuống núi, rừng xanh, vườn nho, cây cối tươi tốt chung quanh, tạo cho con người một tâm hồn thanh thoát. Đoàn Hành Hương dừng chân nơi một giếng Đức Mẹ khác nữa dưới chân núi, người ta để tấm bảng "Mary's Well - Giếng Đức Mẹ."

Sau đó, trên đường thăm viếng mô hình Kinh Thành và Đền Thánh Jerusalem. Mô hình Kinh Thành và Đền Thánh Jerusalem được xây dựng rất vĩ đại và công phu phản ảnh trọn vẹn Kinh Thành Jerusalem đời Chúa Giêsu.  Hình ảnh Đền Thánh Jerusalem hùng vĩ oai nghiêm do Vua Herode xây dựng vào năm 20 BC. Đây là Kinh Thành David. Xa xa phía góc kia là Đồn Lũy Antonia Fortress. Cả mô hình Kinh Thành Jerusalem. Mô hình Đền Thờ thứ 2 của Kinh Thành Jerusalem thời vua Herode được phỏng dựng lại cho khách du lịch và hành hương tham quan. Công trình này kéo dài 7 năm sau khi nghiên cứu, thực hiện, và xây dựng một cách công phu. Công trình này chiếm khoảng ¼ acre. Những nhà thiết kế đã thực hiện lại theo mẫu hình Kinh Thành Jerusalem dưới thời Đức Giêsu một cách chính xác nhất.
Chúng tôi may mắn được vào xem thư viện truyền thống của Israel. Thư viện nhỏ với hình củ hành giống như những chiếc bình đựng những Cuốn Thánh Kinh từ Qumran vùng Biển Chết. Cộng Đồng người Essenes tự nhận mình là con Thần Ánh Sáng và những dân tộc khác là con của tối tăm. Quan niệm này được diễn tả bằng sự tương phản giữa mầu trắng của Đền và mầu đen của bức tường gần cửa chính. Bức tường cẩm thạch mầu đen tượng trưng cho sự đau khổ của người Do Thái xuyên suốt 2000 năm. Đền này với biểu tượng như một cái hang nằm sâu dưới lòng đất. Đền này chứa đựng Những Cuốn Thánh Kinh quý giá vùng Biển Chết, với những thư từ tài liệu của Bar Kokhba và những di tích giá trị khác...Pho Sách Thánh Kinh cổ kính và hiếm quý viết trên giấy papyrus và da, được gọi là Dead Sea Scroll.
Sau đó, Đoàn Hành Hương viếng thăm Đại Giáo Đường Giáng Sinh. May mắn quá, Đại Giáo Đường Giáng Sinh hôm nay khá vắng người...Đoàn chúng tôi được Wasim Saba, người hướng dẫn đưa chúng tôi vào Đại Giáo Đường Giáng Sinh. 
 
                                                                 Nhà Thờ Giáng Sinh Belem.
Đại Giáo Đường Giáng Sinh với hình Thánh Giá dài 170 feet và rộng 80 feet. Đại Giáo Đường Giáng Sinh được chia làm 5 cánh với 4 hàng cột lớn bằng đá đỏ của Đất Thánh. Những miếng trang trí bằng đá mosaics từ thế kỷ thứ 4 được khám phá ra năm 1936. Phần trên của Đại Giáo Đường và các tường, những miếng trang trí mosaics hiện rõ và do Đạo Binh Thánh Giá trang trí lại. Ca Đoàn Chính Thống Hy Lạp thường đứng hát Thánh Ca trên Hang Đá Giáng Sinh được trạm trổ bằng tay trên gỗ bá hương từ Lebanon. 2 cửa chính vào Đại Giáo Đường dẫn tới Hang Đá Giáng Sinh hình vuông với 35 feet dài và 10 feet rộng. Hang Đá Giáng Sinh được trang trí bằng 48 ngọn đèn. Một Ngôi Sao bằng bạc đặt ngay nơi Đức Giêsu Giáng Sinh có ghi bằng tiếng La Tinh: “Hic de Maria Virgine Jesus Christus Natus Est.” (Nơi đây Đức Giêsu Kitô đã Giáng Sinh bởi Mẹ Maria Đồng Trinh). Máng Cỏ được đặt bên phải. Những tảng đá nguyên thuỷ đen sạm vì nến và khói nằm phía trên Máng Cỏ. Mái nguyên thuỷ của Hang Đá được làm từ thế kỷ thứ 4. Những bức tường của hang được bảo quản bằng vật liệu chống lửa cháy do Tổng Thống Pháp Mac Mahon tặng năm 1874.
Sau khi hôn kính Ngôi Sao Giáng Sinh và chụp hình bên Máng Cỏ Chúa Giêsu, đoàn chúng tôi dâng Thánh Lễ tại hang Mục Đồng trên Cánh Đồng Mục Tử.. Đoàn  thăm viếng Cánh Đồng Mục Tử. Những mục đồng canh giữ đoàn chiên ngoài đồng ban đêm, họ thấy các thiên thần của Thiên Chúa đứng hát chung quanh họ và loan tin: “Đừng sợ, ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại, hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa.” (Luke 2). Mặc dù các Phúc Âm không nói rõ vị trí chính xác của các mục đồng, nhưng theo truyền thống xa xưa, nơi này là cánh đồng nằm vào khoảng 2 dặm về phía đông của Belem. Đoàn chúng tôi dâng Thánh Lễ tại đây, vang hát những bài ca Giáng Sinh của các Thiên Thần loan báo cùng với các Mục Đồng năm xưa: “Gloria in Excelsus Deo – Vinh Danh Thiên Chúa trên các Tầng Trời.”

Ngày 20 tháng 10, đoàn hành hương tiến về Nazareth nơi Chúa Giêsu sống ẩn dật 30 năm. Nazareth là một trong những thành phố chính của Đất Thánh với độ cao 1,230 feet trên mặt nước biển. Thành phố này nằm giữa những ngọn đồi và được chọn là nơi Truyền Tin cho sự kiện sinh hạ Đấng Cứu Thế. Nơi đây, “Ngôi Lời đã biến thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta.” (John 1:14). Đức Kitô đã sống thời kỳ ẩn dật tại đây giống như các trẻ em Nazareth khác. Ngài đã làm thợ mộc với Thánh Cả Giuse và Thánh Sử Luca đã gọi Ngài là người thợ mộc. Nazareth là một thành phố nhỏ không có tiếng tăm, bên cạnh làng Cana. Tại đây, Nathanael đã nghe nói về Đức Kitô. Ngài cũng không được đón tiếp tại quê hương Nazareth khi Ngài khẳng định: “Quả thật ta nói cho chúng con hay, không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình.” (Luke 4:24). Chúng tôi vào thăm Hội Đường Do Thái, nơi dân Nazareth đã không tiếp nhận Ngài. Chúa Giêsu đã rời bỏ Nazareth để xuống Capharnaum để rao giảng. Tại  Nazareth có một giòng suối nhỏ vẫn tiếp nước cho giếng nước của Mẹ Maria (Mary’s well).  Năm 66 A.D. Thành phố này bị tàn phá do Vespasian. Vào năm 629, người Do Thái bị trục xuất khỏi Nazareth do lệnh của Heraclius. Trong thời kỳ Đạo Binh Thánh Giá, thành phố sống lại và phồn thịnh hơn. Ông Tancred, Hoàng Tử của Galilê xây dựng lại nhiều Nhà Thờ và tu viện. Năm 1187, thành phố bị Saladin xâm chiếm. Năm 1263 thành phố bị tàn phá do Beybars, sau đó rơi vào tay người Hồi Giáo kéo dài 400 năm. Năm 1620, nhiều gia đình Công Giáo về lập nghiệp nơi đây. Ngày nay, Nazareth phát triển lên và khoảng 35,000 dân gồm người Ả Rập và phần đông là người Công Giáo.
Nazareth là nơi cư trú của người Do Thái xưa kia. Người Công Giáo khởi công xây dựng vào thế kỷ thứ 4. Khoảng thế kỷ thứ 5, Nhà Thờ Truyền Tin được xây dựng tại hang đá Truyền Tin. Năm 614, Nhà Thờ bị phá huỷ do người Ba Tư. Tancred xây dựng lại tu viện và Nhà Thờ theo kiểu Roman. Năm 1263, Nhà Thờ Đạo Binh Thánh Giá bị phá huỷ do Beybars. Năm 1730, Tu Sĩ Phanxicô được phép xây một Nhà Thờ nhỏ và được làm lớn hơn vào năm 1877. Tu Sĩ Phanxicô luôn luôn muốn xây dựng một ngôi Nhà Thờ lớn xứng đáng với Mầu Nhiệm Truyền Tin. Ước mơ của họ được thực hiện vào năm 1960-1968. Một Nhà Thờ nguy nga được xây dựng tại đây. Nhà Thờ này trở thành lớn nhất trong vùng Trung Đông. Trước khi xây dựng, họ khai quật toàn bộ khu vực. Nhiều di tích đời xưa được khám phá.

Sau khi kính viếng Thánh Đường Truyền Tin và hôn kính nơi Sứ Thần Truyền Tin cho Mẹ Maria. Đoàn kính viếng xưởng thợ Thánh Giuse và Gia Đình Thánh Gia, hành hương nơi Giếng Đức Mẹ đã thường xuyên múc nước hằng ngày cho sinh hoạt Gia Đình Thánh Gia. Hành Hương Bước Theo Thầy cũng còn đến thăm viếng làng Naim, nơi Chúa Giêsu cho chàng thanh niên con một bà goá sống lại. Đêm nay,đoàn chúng tôi nghỉ đêm tại làng Nazareth.

Tiếp theo, Hành Trình Bước Theo Thầy viếng thăm Cana, nơi Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại đây. Đoàn dâng lễ Hôn Nhân đặc biệt cho 5 cặp Hôn Nhân tham dự nghi thức Lễ Nghi Hôn Nhân Truyền Thống tại Cana, và được cấp chứng chỉ Hôn Nhân tại Cana, để nhớ lại Bí Tích Hôn Nhân. Cana nằm vào khoảng 4 miles trên đường từ Nazareth tới Tiberias. Cana là nơi Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên hoá nước thành rượu trong một tiệc cưới. (John 2:1-11). Đoàn được tận mắt nhìn thấy 1 trong 6 chum nước rửa tay mà Chúa Giêsu đã truyền cho gia nhân đổ nước để Ngài làm phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Chúng tôi đi chung quanh khu vực của gia đình đã mới Chúa Giêsu và Mẹ Maria tham dự tiệc cưới. 2 Nhà Thờ được xây dựng tại đây để kính nhớ phép lạ đầu tiên này.  Sau đó, Đoàn Hành Hương tiến về Cesarêa thăm viếng những di tích xa xưa với những dinh thự, đền đài từ thế kỷ thứ nhất thời Roma. Đoàn lên núi Carmel, nơi tiên tri Elia thách đố niềm tin với 450 phù thuỷ của Thần Baal. Elia đã xin lửa bởi trời nhận lễ vật để minh chứng Thiên Chúa là Thiên Chúa thật, trước sự thất bại của nhóm phù thuỷ Thần Baal.  Tiên Tri Elia đã ra lệnh truy diệt tất cả nhóm phù thuỷ Thần Baal này. Sau đó, Đoàn Hành Huơng tiến về hải cảng nổi tiếng Haifa và ăn trưa mừng 5 cặp hôn nhân tại đây. Khung cảnh đại dương xanh điệp trùng rất nên thơ. Haifa là một thành phố nhỏ với 10,000 dân cư vào đầu thế kỷ 20. Hiện nay, dân số tăng lên tới 225,000 người và là thành phố lớn thứ 3 của Do Thái. Haifa là hải cảng chính và là nơi có nhiều kỹ nghệ quan trọng. Thành phố nằm trong bờ biển Địa Trung Hải và dọc theo núi Carmel. Haifa có tên gọi vào thế kỷ thứ 3 A.D. Thành phố nhỏ này bị chiếm đóng nhiều lần do Đạo Binh Thánh Giá, người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ, và người Anh. Năm 1898, Theodor Herzl, sáng lập viên của Zionism, thăm viếng Haifa và thấy được tương lai của thành phố. Ngày nay, nhiều cư dân đã định cư tại đây và biến thành phố trở thành một nơi quan trọng. Haifa còn có trung tâm của Tôn Giáo Bahai trên toàn thế giới với khoảng 2,000,000 tín đồ. Đạo Bahai có nguồn gốc từ Ba Tư năm 1844. Những người lãnh đạo của Tôn Giáo này bị đầy sang Acre. Họ tin tưởng sẽ quy tụ được mọi Tôn Giáo, mọi sắc dân, và xử dụng chung một ngôn ngữ trên toàn thế giới. Theo họ, tất cả các tiên tri được Thiên Chúa sai đến mang cùng một sứ điệp. Tiên Tri sau cùng là Baha Ullan, vị sáng lập Tôn Giáo Bahai. Họ thiết lập thành phố Thánh Địa tại Haifa.
Sau đó, Đoàn Hành Hương đến viếng Đức Ba Núi Carmêlô, tước hiệu Mẹ của Đại Dương. Một Thánh Đường nguy nga dâng kính Đức Bà Núi Carmêlô. Nơi đây, ảnh Đức Bà Núi Carmelô hay làm phép lạ được phổ biến trên toàn thế giới. Hành Hương chúng tôi cầu nguyện tha thiết với Đức Bà Carmêlô.
Buổi chiều, đoàn hành hương tiến lên Núi Tabor, nơi Chúa Biến Hình với 3 môn đệ: Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Núi Tabor sừng sững vươn cao giữa các đồng bằng trên 1,900 feet cao hơn mực nước biển. Đây là một khung cảnh tuyệt đẹp trong vùng núi miền Galilê. Trong Thánh Vịnh 89, David hát lên: “Núi Tabor và Hermon sẽ mừng vui trong danh Thiên Chúa.” Trong thời xa xưa, nơi đây là biên giới giữa bộ lạc miền bắc và miền nam. Núi Tabor được nhận là Núi Thánh của Do Thái, vì nơi đây, vinh quang Thiên Chúa được thể hiện qua chiến thắng của Barak, với lời tiên tri Deborah, đánh bại quân đội Canaan dưới quyền Sisera (Judges 4:6). Làng Ả Rập dưới chân núi có tên gọi là “Daburieh” để vinh danh Nữ Tiên Tri Deborah. Đối với người Thiên Chúa Giáo, núi Tabor là Núi Thánh vì nơi đây Chúa Giêsu đã biến hình trước 3 môn đệ của Ngài (Luke 9:28 – 36). Đỉnh Núi Tabor dài 1,300 yards và rộng 450 yards, vây quanh với những di tích của thành luỹ cũ xây dựng vào thế kỷ 13 do người Hồi Giáo. Năm 1924, quý cha Phanxicô đã xây Nhà Thờ Chúa Biến Hình tại đây với những di tích của các Nhà Thờ trước kia. Bên cạnh những di tích của Nhà Thờ Byzantine thế kỷ thứ 6 và 12, người ta còn thấy được những di tích của những thành luỹ và tu viện xa xưa. Từ đỉnh cao của Núi Tabor, du khách có thể xem thấy khung cảnh huy hoàng và tuyệt mỹ của cả vùng chung quanh. 

Ngày 22 tháng 10, Hành Trình Bước Theo Thầy theo bước chân của Chúa Giêsu viếng thăm Biển Hồ Galilea. Thăm viếng Nof Ginosaur Kibbutz, nơi con thuyền nguyên thuỷ từ thế kỷ thứ nhất trong thời Chúa Giêsu hoat động Truyền Giáo tại đây. Đoàn hành hương cùng Chúa Giêsu lênh đênh trên Biển Hồ Galilea sóng nước chập chùng. Tới giữa Biển Hồ, tầu dừng lại, và chúng tôi cùng suy niệm đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu làm phép lạ khiến cho sóng và gió biển im lặng. Buổi trưa đoàn thưởng thức món Cá Thánh Phêrô truyền thống.
Biển Hồ Galilê dài 13 miles  rộng 7 miles và sâu từ 130 đến 157 feet. Biển Hồ thấp hơn mặt nước biển là 686 feet. Biển Hồ có nhiều tên gọi khác nhau như Biển Hồ Galilê, Biển Hồ Tiberias, hay Biển Hồ Kinneret. Biển Hồ có hình giống như cây đàn harp và có nhiều cá như cá chép, cá mullet, cá trê, cá mòi...Giống như thời gian xa xưa, hiện nay, người ta vẫn còn bắt cá bằng lưới. Nước Biển Hồ trong và yên tĩnh. Thời Chúa Giêsu, Biển Hồ là trung tâm dẫn đến các phương hướng khác nhau. Nơi đây, với sự thông thương thuận lợi, thung lũng phì nhiêu, sự tươi đẹp của vùng, và suối nước nóng của Tiberias, đã lôi cuốn số đông dân cư về sinh sống. Biển Hồ Galilê bao quanh bởi 9 thành phố. Với nước ngọt, nhiều cá và mặt hồ xanh thắm, Biển Hồ Galilê đã trở thành lý tưởng cho cuộc sống. Trong thung lũng đầy tràn sinh động, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng về Nước Thiên Chúa. Nơi đây, Ngài đã trải qua cuộc đời công khai khá lâu cũng như giảng dạy và làm nhiều phép lạ. Trên bờ Biển Hồ, Chúa Giêsu đã chọn Thánh Phêrô, Andrê, Giacôbê, và các Tông Đồ khác (Mathew 4:18-  20, Luke 5:1- 11). Ngài chữa lành người cùi (Mathew 8: 1-4). Ngài truyền cho sóng biển im lặng (Matthew 14: 22- 23) và chữa lành nhiều bệnh nhân khác (Matthew 15: 19- 21). 12 Tông Đồ được Ngài truyền lệnh lên nơi thanh vắng và cầu nguyện tại nơi gần Biển Hồ (Mark 3:13- 19). Đêm nay, đoàn chúng tôi được nghỉ đêm tại ngay Biển Hồ Galilê.
Ngày chiều, Hành Trình Bước Theo Thầy viếng thăm Capharnaum – Capernaum, Trung Tâm hoạt động Truyền Giáo của Chúa Giêsu. Kính viếng ngôi nhà của Nhạc Phụ Thánh Phêrô và Hội Đường Do Thái nguyên thuỷ tại đây. Buổi tối sẽ có dịp tắm nước Biển Hồ Galilea. Capharnaum nằm khoảng 2 dặm rưỡi từ nơi sông Jordanô chảy vào Biển Hồ Galilê. Nơi đây có trạm canh thuế vụ trên đường tới Damascus và là nơi đông đảo những quan quyền Roma.  Đây là thành phố bận bịu khá nhiều do các thương gia vận chuyển lụa là và gia vị từ Damascus, rồi mang về cá khô, cây trái, từ vùng Gennessaret. Sau khi rời bỏ Nazareth, Ngài đến Capharnaum và biến nơi này thành nơi cư trú và giảng đạo. Thành phố này biến thành trung tâm hoạt động của Ngài. Tại đây, Ngài giảng dạy rất nhiều, đồng thời, Ngài thực thi nhiều phép lạ. Capharnaum là quê hương của Thánh Phêrô. Đức Giêsu rao giảng trong Hội Đường (Mark 1:21, Like 4:31 – 33). Ngài chữa lành một người quỷ ám và chữa lành mẹ vợ của Thánh Phêrô (Matthew 8:17 – 17, Mark 1:21 – 34, Luke 4:31 – 41). Ngài chữa lành người đầy tớ của viên bách quan đội trưởng (Matthew 9:1 – 8, Mark 2:1 – 12, Luke    5:17 – 20). Ngài cho con gái ông Jarô sống lại (Matthew 9:18 – 26, Mark 5:22 – 43, Luke 8:41 – 56). Ngài chữa lành người đàn bà hoại huyết (Matthew 9:20 – 22, Mark 5:25 – 35, Luke 8:43 – 48). Ngài chữa lành 2 người mù (Matthew 9:27 – 35). Làm phép lạ cho con trai người giầu có (John 4:46 – 54). Chữa lành kẻ bại tay (Matthew 12:10 – 14, Mark 3:1 – 6, Luke 6:6 – 11) và chữa lành nhiều người được mang đến cầu khấn Ngài (Matthew 8:16 – 17; 9:36 – 38). Ngài lên án Capharnaum (Matthew 11:23 – 24). Lời tiên tri của Đức Giêsu về Capharnaum đã xảy ra. Ngày nay, Capharnaum đổ nát bên bờ hồ. Năm 1905, 2 nhà khảo cổ người Đức bắt đầu khai quật tại đây và được quý Cha Phanxicô hoàn thành vào năm 1926. Họ đã khám phá ra Hội đường nổi tiếng tại đây. Hội đường này được xây lại vào thế kỷ thứ 3 trên những di tích của Hội Đường mà Đức Giêsu đã chữa lành người đầy tớ của viên bách quan đội trưởng (Luke 7). Những biểu tượng của người Do Thái và Roma được trạm trổ trên các tảng đá. Những di tích của người Do Thái bao gồm Ngôi sao Vua David, Menorah-Chân Đèn 7 ngọn, Hòm Bia Giao Ước, và lá dừa...Người Công Giáo tôn kính Hội Đường Capharnaum vì là nơi Chúa Giêsu tôn thờ Chúa Cha, giảng dạy, và làm phép lạ. Quý Cha Phanxicô còn khai quật thấy nhà của Thánh Phêrô với những di tích của Nhà Thờ cổ từ thế kỷ thứ 5.
Đoàn Hành Hương Bước Theo Thầy theo dấu chân của Chúa Giêsu đến làng Korazin và hành hương viếng thăm Thánh Đường Thánh Phêrô tuyên tín và được Chúa Giêsu đặt làm Giáo Hoàng đầu tiên. Đoàn chúng tôi đặt tay trên tảng đá Thánh Phêrô tuyên tín để cầu nguyện cho Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam. Nhà Thờ Primacy of St Peter-Quyền Giáo Hoàng của Phêrô được xây năm 1934 trên một tảng đá lớn gọi là “Mensa Christi -Bàn của Đức Kitô.” Theo truyền thống, đây là nơi Chúa  Giêsu hiện ra với các Tông Đồ sau khi sống lại. Ngài chuẩn bị bữa ăn cho các ông và trao quyền Giáo Hoàng cho Thánh Phêrô khi Ngài tuyên bố: “Hãy chăn các chiên ta.” (John 21: 9). 
Đoàn thăm viếng Tabgha, nơi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi sống 4000 người. (Mt. 14:20). Tên Tabgha này do từ tiếng Hy Lạp Heptapegon với nghĩa 7 giòng suối. Nơi đây có nhiều nguồn nước. Theo truyền thống, nơi đây Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều với 5 chiếc bánh và 2 con cá nuôi sống 5000 người (Mark 6:36- 44, Matthew 14:13- 21, John 16:1- 6). 2. Nhà Thờ kiểu Byzantine được xây dựng tại đây vào thế kỷ thứ 4 và thứ 5. Năm 1942, những di tích của Nhà Thờ này được khám phá ra với nghệ thuật mosaic còn rất đẹp. Trên tảng đá làm bàn thờ, còn bức tranh mosaic vẽ lại hình của giỏ bánh và 2 con cá. Dưới Bàn Thờ là tảng đá mầu đen, theo tương truyền Chúa Giêsu đã ngồi trên tảng đá này để rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Sàn Nhà Thờ trang trí bằng mỹ thuật mosaic với hình chim, cá, thú vật, và hoa cỏ trong vùng. Năm 1934, một Nhà Thờ mới được xây dựng trên nền Nhà Thờ kiểu Byzantine cũ.Chúa Nhật ngày 23 tháng 10, đoàn Hành Hương kính viếng Thánh Đường 8 Mối Phúc Thật – Hiến Chương Nước Trời. Núi Tám Mối Phúc Thật theo tương truyền là nơi Chúa Giêsu giảng về hiến chương Nước Trời gồm Tám Mối Phúc Thật và những nguyên tắc của đời sống vĩnh cửu. “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Matthew 5). Năm 1937, quý cha Phanxicô đã xây dựng trên núi này và hướng về mặt hồ. Nhà Thờ này được gọi là Nhà Thờ Tám Mối Phúc Thật. Hành trình Bước Theo Thầy Dâng Thánh lễ Tạ Ơn tại đây. chúng tôi ngồi xuống đất với nhau, giống như xưa Thầy Chí Thánh Giảng Tám Mối Phúc Thật cho dân chúng ngồi nghe. Lao xao tiếng gió sáng mùa thu qua các kẽ lá. Chúng tôi xúc động vì được Bước Theo Thầy, lắng nghe tiếng Thầy giảng về Tám Mối Phúc Thật.

 
                                                         Nhà Thờ Tám Mối Phúc Thật.
Sau đó, Hành Trình Bước Theo Thầy lên đường về Jericho, nơi Chúa Giêsu gặp gỡ Gia-Kêu và chữa lành người mù tại đây. Jericho nằm trong thung lũng Jordan nối dài theo núi Hermon về phía bắc và về phía nam vịnh Aqaba với khoảng cách là 280 dặm. Phần thấp nhất là vùng Biển Chết với 1,300 feet dưới mực nước biển. Đây là phần đất thấp nhất thế giới. Jericho có nhiều vườn tược xanh tốt như một thảm xanh trong thung lũng Jordan. Từ lâu, Jericho được biết đến như một miền đất phì nhiêu với những vườn cam, táo, và chà là. Thời xa xưa, Jericho được gọi là “The City of Palms.” Về mùa hè, Jericho rất nóng nực và ngột ngạt. Mùa đông và mùa xuân, khí hậu Jericho rất tốt với mùi thơm của các loại hoa khác nhau. Jericho có nền văn minh lâu đời khoảng từ 7,000 – 10,000 B.C. Nó được coi là thành phố cổ nhất thế giới hiện nay. Khi cô Kathleen Kenyon khai quật thành phố vào năm 1952 – 1956, những di tích đổ nát của nhiều thành phố nối tiếp nhau dầy khoảng 80 feet và bao phủ 10 acres. Tiến sĩ Sellin, người Australia, khi khai quật Jericho đã khám phá ra Tell-el-Sultan vào năm 1908. Năm 1936, Garstang của trường khảo cổ nước Anh tiếp tục công trình khai quật trước, và cô Kathleen Kenyon tiếp tục khám phá trong những năm 1952 – 1956. Kết quả cho thấy những khám phá về thành phố cổ nhất thế giới tại đây. Những vật dụng khám phá qua xét nghiệm carbon 14 đã xác định tuổi của những di tích vào những năm 7,000 B.C. Jericho có lịch sử từ thế kỷ 13 B.C. với sự kiện tiến về Hứa Địa của người Do Thái. Đây là thành phố đầu tiên người Do Thái chiếm được khi qua sông Jordan (Joshua 6). Sau khi phá huỷ và đốt cháy Jericho, Thánh Kinh kể lại sự kiện như sau: “Gioxuê thề rằng, trước nhan Thiên Chúa, khốn cho kẻ đứng lên tái thiết thành này. Kẻ nào đào móng dựng nên thì con đầu lòng của nó phải chết. Kẻ nào dựng cổng xây tường thì con út nó phải mạng vong.” (Joshua 6:26).
Tiên tri Êlisê đã dùng một nắm muối đổ xuống suối nước làm cho nước hóa ra tốt lành (II Kings 2:19). Suối này là nguồn sống của người dân Jericho. Đức Giêsu đã nhiều lần dừng lại tại Jericho khi Ngài đến Jerusalem dự lễ Vượt Qua. Tại Jericho, Đức Giêsu đã nói với các Tông Đồ: “Nào chúng ta lên Jerusalem và Con Người sẽ bị nộp vào tay các thượng tế và luật sĩ. Họ sẽ kết án tử cho Ngài và trao Ngài cho lương dân để xỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài, và ngày thứ 3, Ngài sẽ sống lại.” (Matthew 20:17 – 19). Tại Jericho, Đức Kitô chữa lành người mù (Luke 18:35 – 42). Tại đây, Ngài gặp gỡ người nhỏ bé là Giakêu trèo lên cây vả để thấy Ngài. Ngài nói với Giakêu: “Giakêu, hãy xuống mau, hôm nay ta đến trong nhà người.” (Luke 19).
Rời bỏ Jericho, Hành trình Bước Theo Thầy tiến về hoang địa, cùng Thầy lên Núi Bốn Mươi Mt of Temptation để ăn chay 40 đêm ngày và chịu cám dỗ trước khi lên đường hoạt động truyền giáo. Đức Giêsu chịu cám dỗ ngay sau những ngày Ngài chịu phép rửa tại sông Jordanô. “Và Đức Giêsu đầy ơn Chúa Thánh Thần rời khỏi sông Jordanô và được hướng dẫn bởi thần khí, Ngài vào sa mạc.” (Luke 4:1-13, Mark 1:12-13). Không có Phúc Âm hay tài liệu nào cho thấy chính xác nơi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày và chịu cám dỗ. Sau này, theo truyền thuyết, nơi Đức Giêsu chịu cám dỗ là núi Bốn Mươi - “Mount of Qarantel.” Núi này nằm phía sau thành Jericho cổ. Đỉnh núi là nơi Ngài chịu cám dỗ lần sau cùng khi ma quỷ chỉ cho Ngài tất cả vương quốc trần gian. Sườn núi phía đông, một Nhà Thờ được xây dựng vào thế kỷ 16 ngay trên hang đá Chúa chịu cám dỗ. Nhà Thờ này bị bỏ hoang vào thế kỷ 13 và năm 1874, Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp đã thiết lập một tu viện tại đây.
Đoàn dừng chân ăn trưa tại Qumran, nơi khám phá ra những mảnh Thánh Kinh rất cổ kính và hiếm quý. Năm 1947, Mohammed Edib, một người Ả Rập du mục đi tìm chiên lạc tại vùng phía tây Biển Chết, anh đã tìm thấy những Cuốn Thánh Kinh Cổ nổi tiếng vùng Biển Chết (Dead Sea Scrolls). Mohammed Edib, khi đi tìm chiên, anh ném một viên đá vào một cái hang, anh nghe có tiếng đổ vỡ. Anh sợ hãi quá và chạy đi vì nghĩ rằng có ma quỷ trong hang. Tuy nhiên, hôm sau, anh gọi người bà con và khi 2 người vào hang, họ thấy 8 cái hũ với nắp vẫn còn đậy kín. Họ mang những hũ ra ngoài và hy vọng tìm thấy vàng trong đó. Nhưng họ thất vọng khi chỉ thấy những cuộn da viết bằng những chữ lạ họ không đọc được. Tất cả 7 cuốn được tìm thấy trong các hũ.  Một ngày nọ, người du mục mang những cuốn này cho một người Syria Thiên Chúa Giáo là Khali Kando và bán cho ông. Khali Kando mua 4 cuốn và đem cho một cư dân đang cư trú tại Jerusalem. Họ nhận ra đây là 4 cuốn Thánh Kinh cổ viết bằng tiếng Do Thái. Họ mua 4 cuốn này ngay. Năm 1949, sau khi biết giá trị lớn lao của những cuôn Thánh Kinh này, họ mang sang Hoa Kỳ và bán cho giáo sư Yigael Yadin với giá $250,000 dollars. Sau đó, những cuốn này được đưa trở về Do Thái. Giáo sư Eleazar Sukenik, là người cha của giáo sư Yigael Yadin mua luôn 3 cuốn còn lại tại Belem. Hiện nay, những cuốn Kinh Thánh này được trưng bày tại Điện Chứa Đựng Sách Thánh Kinh (Shrine of the Book) trong bảo tàng viện Do Thái tại Jerusalem. Cuốn Thánh Kinh nổi tiếng nhất trong số sách này là cuốn sách của Tiên Tri Isaia với chiều rộng 1foot và chiều dài 24 feet. Năm 1949, giáo sư Harding, giám đốc của những đồ cổ tại Jordan, và Peer de Vaux, giám đốc Học Viện Thánh Kinh (Ecole Biblique), và những người du mục thấy được giá trị của nhưng cuốn Kinh Thánh này, họ bắt đầu tìm kiếm thêm những tài liệu khác trong vùng phía tây Biển Chết. Hơn 900 mảnh tài liệu khác của những cuộn sách giá trị được tìm thấy trong hơn 30 hang tại vùng. Một số lớn các bản thảo giá trị được tìm thấy từ hang số IV do người du mục Ả Rập tìm thấy vào năm 1952. Hang này cách khu vực di tích đổ nát của Qumran khoảng 400 yards. Những cuốn sách Thánh Kinh này được viết trên da và giấy papyrus. Một số khác được viết trên miếng đồng. 
Sau khi ăn trưa tại Qumran, Hành Hương Bước Theo Thầy tiến về Biển Chết Dead Sea. Chúng tôi cùng nhau tắm trên Biển Chết nổi lềnh bềnh, dù không biết bơi. Nhưng đôi chân nổi trước và rất khó giữ thăng bằng. Rất đông du khách tới viếng thăm và tắm tại đây. Chúng tôi lấy bùn trét lên nhau. Đặc biệt, nước Biển Chết rất mặn.  Nếu vào mắt phải lấy nước ngọt rửa ngay, nếu không sẽ bị cay xè và rất khó chịu. Biển Chết dài 47 dặm và rộng 10 dặm. Diện tích mặt biển là 360 dặm vuông với chiều sâu của nước là 1,278 feet. Biển Chết nằm dưới mực nước biển. Nơi đây là điểm thấp nhất của trái đất. Gọi là Biển Chết bởi vì không có một sinh vật nào sống trong đó. Nước Biển Chết có nồng độ mặn nhất thế giới với 26% muối. Nước Biển Chết mặn gấp 5 tới 7 lần so với nước biển khác, đồng thời, lượng đậm đặc của hoá chất tại đây rất cao vì Biển Chết không có lối thoát. Sông Jordanô và các nguồn suối khác đổ vào Biển Chết cả ngàn tấn nước hoà lẫn với lưu huỳnh và nitrat. Nước này không thoát ra được và chịu sức nóng kinh hoàng của thung lũng Jordanô. Nước lại bốc hơi và sức đậm đặc của hoá chất gia tăng lên. Biển Chết có nhiều khoáng chất. Những nhà nghiên cứu nhận thấy cả ngàn mét khối calcium, chloride, magnesium, sodium, và potassium trong đó. Đặc biệt, nước Biển Chết có trọng lực nặng tới mức độ 1.166. Do đó, thân thể không bị chìm và người ta có thể nổi trên mặt nước mà không cần biết bơi lội.  
  Lênh đênh trên Biển Chết.
 

Từ Biển Chết trở về, Hành Trình Bước Theo Thầy về Jerusalem để cùng chịu khổ nạn và chết với Thầy.......

Xin bấm vào xem tiếp theo Hành Hương Cursillo 2011, Bước theo chân Thầy phần 2

Share

Copy đường link dưới đây để gửi đến nick Yahoo bạn bè!


TÁC GIẢ
TIỂU SỬ TÁC GIẢ LINH MỤC NHẠC SĨ PAUL VĂN CHI
TIỂU SỬ TÁC GIẢ LINH MỤC NHẠC SĨ PAUL VĂN CHI

TÁC PHẨM
Hành Trình Với Mẹ 2013
Hành Hương Cursillo 2011, Bước theo chân Thầy phần 1
Chiều thứ 2 ngày 17 tháng 10 năm 2011, đoàn Hành Hương Bước Theo Thầy lên đường Hành Hương theo bước Chân của Chúa Giêsu Kitô và bước chân của các Thánh Tông Đồ, đặc biệt 2 Thánh Tông Đồ Cả là Phêrô và Phaolô.

thanh-ca.html
http://www.paulvanchi.net/new/newsdetail-20-37-Con-Duong-Chua-Da-Di-Qua-DVD2-and-DVD3.html
Trang chủ Tác giả Tác phẩm Tin tức Hình ảnh Sáng tác Thánh ca Liên kết Liên hệ
Lượt truy cập:
14051008
Online:
14

ĐIẠ CHỈ TẠI AUSTRALIA : Rev. Paul Van Chi Chu. Vietnamese Catholic Community Center
92 THE RIVER RD REVESBY NSW 2212. AUSTRALIA. Tel: (02) 9773-0933 - Fax: (02) 9773-3998 
Email: paulvanchi@yahoo.com - Website: www.paulvanchi.net